Những thỏa thuận ngoại hối trên thị trường ngoại hối

amcenter

Banned
Joined
Feb 5, 2015
Messages
47
Reactions
3
MR
0.000
iao dịch giao ngay là phương thức phổ biến nhất với những người tham gia thị trường Ngoại hối. Phần lớn trong số họ không nghĩ đến câu hỏi vậy còn phương thức giao dịch nào khác trên thị trường hay không.

Tôi cho rằng việc tìm hiểu về các hoạt động hối đoái khác trên thị trường là rất cần thiết vì thị trường Ngoại hối hoạt động như một thể thống nhất và tiền có thể dễ dàng chảy từ hình thức hối đoái này sang hình thức hối đoái khác tùy thuộc vào hoàn cảnh của thị trường và tỷ lệ giữa rủi ro và lợi nhuận.

Hợp đồng giao ngay là hợp đồng hối đoái được thanh toán ngay lập tức (thanh toán và giao hàng trong vòng hai ngày làm việc kể từ ngày giao dịch). Khoảng trên 2/3 các hợp đồng hối đoái là hợp đồng giao ngay. Tỷ giá mà chúng ta vẫn thường nói đến từ đầu đến giờ thực ra chính là tỷ giá giao ngay, tức là tỷ giá hối đoái tại một thời điểm xác định. Việc giao hàng (ở đây là ngoại tệ) trong vòng 2 ngày làm việc có nghĩa là số dư trên tài khoản sẽ được ghi nợ và ghi có ngay tại thời điểm giao dịch, nhưng ngoại tệ [đóng vai trò hàng hóa] sẽ được chuyển trong vòng hai ngày làm việc. Tuy nhiên, một nhà kinh doanh vì lợi nhuận trên thị trường sẽ không cần nghĩ đến điều đó bởi sớm hay muộn thì anh ta cũng sẽ đóng trạng thái giao dịch của mình và do vậy, việc chuyển tiền thật sự không quá quan trọng với anh ta. Nếu ngày giao hàng rơi đúng vào ngày nghỉ, nó sẽ được thực hiện vào ngày giao dịch tiếp theo. Tất cả các hợp đồng đều được thực hiện trực tiếp với sự trợ giúp của hệ thống giao dịch qua máy tính, không giống các giao dịch trao đổi khác, nơi mà giá cả được xác định thông qua đấu giá.

Hợp đồng kỳ hạn (Forward contracts) là hợp đồng hối đoái có thời hạn trong đó việc trao đổi được xác định vào một ngày cụ thể trong tương lai với một tỷ giá cố định sẵn. Ví dụ, một hợp đồng được ký kết ngày hôm nay nhưng ngày giá trị lại là một thời điểm khác trong tương lai. Thời hạn của hợp đồng kỳ hạn thường là dưới một năm.

Hợp đồng kỳ hạn thường là công cụ bảo hiểm rủi ro được sử dụng để ngăn ngừa biến động tỷ giá. Một hợp đồng kỳ hạn cho phép cố định giá một ngoại tệ từ trước và giảm chi phí trao đổi tiền tệ. Ví dụ, các nhà sản xuất lớn chỉ quan tâm đến quá trình sản xuất chứ không tham gia vào các hoạt đồng đầu cơ ngoại tệ, đơn giản vì đó không phải là lĩnh vực chuyên môn của họ và họ cũng hoàn toàn không cần làm điều đó vì mục đích lợi nhuận. Như thế có nghĩa là việc cố định tỷ giá tiền tệ bằng các hợp đồng kỳ hạn cho phép các công ty trong lĩnh vực sản xuất quản lý tài chính tốt hơn và dự báo kết quả sản xuất kinh doanh của mình một cách chính xác hơn. Trong hợp đồng kỳ hạn, một đồng tiền có lãi suất thấp hơn được dùng để đổi lấy một đồng tiền có lãi suất cao hơn cộng thêm một khoản thặng dư (forward premium) và một đồng tiền có lãi suất cao hơn được dùng để đổi lấy một đồng tiền có lãi suất thấp hơn trừ đi một khoản khấu trừ (forward discount). Do vậy, tỷ giá kỳ hạn được tính bằng tỷ giá giao ngay cộng thêm một khoản thặng dư hoặc trừ đi một khoản khấu trừ. Nó cho phép các nhà kinh doanh đầu cơ vào các hợp đồng kỳ hạn bằng cách bán hoặc mua các hợp đồng kỳ hạn với hy vọng kiếm lời nhờ sự chệnh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn. Tuy nhiên, các hợp đồng kỳ hạn không được kí kết trực tiếp trên thị trường Ngoại hối, chúng là những hợp đồng riêng lẻ được thỏa thuận giữa các ngân hàng và khách hàng của mình. Các hợp đồng kỳ hạn cũng có thể là hàng hóa trao đổi để kiếm lời. Các hợp đồng mua bán ngoại tệ mà việc mua bán đã được thỏa thuận xong nhưng ngày giá trị lại là một thời điểm khác được gọi là hợp đồng tương lai. Quy mô lô cũng như thời hạn của các hợp đồng tương lai phải tuân theo tiêu chuẩn (thường là 3 tháng), đó là quy tắc trên thị trường Ngoại hối.

Hoán đổi ngoại tệ là một thỏa thuận ngoại hối nhằm trao đổi một lượng nhất định một đồng tiền nào đó lấy một đồng tiền khác cho đến một thời điểm xác định trong tương lai. Ví dụ, hoán đổi cặp EUR/USD có nghĩa là đồng euro được trao đổi với đô-la Mỹ trong một khoảng thời gian nhất định, có thể là một tháng, sau đó việc hoán đổi ngược lại sẽ diễn ra. Các thỏa thuận kiểu này đặc biệt phổ biến trong thanh toán liên ngân hàng và chiếm tới 95% tổng số hợp đồng hoán đổi tiền tệ.

Về lý thuyết, đồng tiền hoán đổi sẽ không được mua hay bán mà chỉ dùng để đổi thành một đồng tiền khác trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất gắn với các đồng tiền khác nhau cũng khác nhau, đó là lý do vì sao một trong các bên tham gia giao dịch phải bồi thường phần chênh lệch lãi suất để tránh nguy cơ lỗ cho tất cả các bên. Ví dụ, nếu bạn chuyển đổi euro thành đô-la Mỹ và gửi số tiền này vào một ngân hàng, thì mức lãi suất ngân hàng này trả cho tiền gửi bằng euro có thể thấp hơn mức lãi suất tiền gửi bằng đô-la Mỹ. Do đó, khi đóng trạng thái của giao dịch này, để thu lại số tiền ban đầu bằng euro thì một bên tham gia giao dịch phải bù đắp sự chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền.

Trên thực tế, một hợp đồng hoán đổi ngoại tệ thường bao gồm 2 hợp đồng, một hợp đồng giao ngay và một hợp đồng kỳ hạn cùng giá trị. Trong giao dịch được đề cập đến ở trên, hợp đồng hoán đổi sẽ bao gồm một hợp đồng giao ngay bán euro mua đô-la Mỹ và một hợp đồng kỳ hạn bán đô-la Mỹ mua euro trong vòng một tháng và được thực hiện đồng thời.

Quyền chọn ngoại hối hay quyền chọn ngoại tệ là các hợp đồng cho phép người mua quyền chọn được mua hay bán một lượng ngoại tệ nào đó tại một mức giá cho trước trong một khoảng thời gian nhất định. Họ có quyền nhưng không bị bắt buộc phải thực hiện việc mua hay bán đó trong tương lai. Người mua có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình. Việc tùy ý sử dụng quyền của người mua khiến cho hợp đồng quyền chọn tiền tệ trở nên rất hấp dẫn, tất nhiên là người mua phải trả phí cho quyền của mình, nghĩa là người mua quyền chọn tiền tệ phải trả một khoản tiền không bồi hoàn cho người bán theo các điều khoản định trước.

Nếu người mua chọn thực hiện quyền của mình thì quyền chọn tiền tệ có thể khiến anh ta phải chịu lỗ trong trường hợp tỷ giá biến động theo xu hướng bất lợi nhưng đồng thời, nó cũng cho phép anh ta kiếm được số lãi nhiều hơn nếu tỷ giá thay đổi theo chiều hướng có lợi cho anh ta. Đặc điểm nổi bật của quyền chọn với vai trò là hợp đồng bảo hiểm rủi ro là người bán quyền chọn tiền tệ cũng phải chịu những rủi ro đáng kể. Nếu người bán quyền chọn tính toán không chính xác, anh ta sẽ phải chịu một khoản lỗ còn lớn hơn mức phí của quyền chọn thu được. Đó là lý do vì sao người bán quyền chọn thường hạ thấp mức chênh lệch trong quyền chọn tiền tệ và nâng cao mức phí cho quyền chọn này – điều không hề dễ chấp nhận đối với người mua.

Tính chất của quyền chọn được thể hiện ở ngày hết hạn thực hiện quyền, tỷ giá tiền tệ và phí quyền chọn. Khách hàng có quyền tùy chọn mức giá thực hiện bằng việc thỏa thuận với một ngân hàng, nhưng cần nhớ rằng phí hòa hồng mà anh ta phải trả cho ngân hàng cũng phụ thuộc vào mức giá thực hiện đó.
 
Tỷ giá hối đoái của các đồng tiền thường thay đổi một cách bất thường và nhiều khi cho chúng ta cảm giác là việc dự đoán chính xác xu hướng ngắn hạn của chúng là điều không thể. Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể gạn lọc được những thông tin hữu ích từ mớ hỗn độn này? Đầu tiên, ta cần học cách phân biệt thị trường ở trạng thái ổn định (consolidating market) và thị trường ở trạng thái biến động - trend market- (theo chiều hướng đi lên – up-trend – hoặc đi xuống – down trend).


Việc này thoạt nghe có vẻ đơn giản, nhưng sự thực thì không phải thế, tuy ở cùng một trạng thái nhưng thị trường có thể có những biểu hiện rất khác nhau ở những giai đoạn khác nhau, như chúng ta thấy trên hình dưới đây. Một xu hướng đi lên trong dài hạn của thị trường thường bao gồm rất nhiều giai đoạn tăng trưởng và suy giảm ngắn hạn nối tiếp nhau.

2014-07-03_11-47-35.png


Кратковременное падение – Suy giảm trong ngắn hạn

Кратковременный рост – Tăng trưởng trong ngắn hạn

Долговременный рост – Tăng trưởng trong dài hạn

2014-07-03_11-54-27.png


Thị trường có thể:

  • Không có chiều hướng rõ ràng và không ổn định;
Trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, giá cả có thể không biến động theo một xu hướng rõ ràng nào, thay vào đó, nó chỉ dao động trong một khoảng hẹp. Đây chính là giai đoạn A trong hình dưới đây (từ 27/04/2006 đến 15/10/2006). Nếu bạn bán hoặc mua đồng euro vào ngày 27 tháng Tư năm 2006 với giá 1.2490, bạn sẽ thấy nửa năm sau đó, giá của đồng euro vẫn quay về mức này sau nhiều biến động thất thường.

  • Không có xu hướng rõ ràng nhưng ổn định;
Giá cả hầu như chỉ dao động quanh một mức nhất định trong một thời gian dài, nó không biến động và, như bạn thấy trên hình, nó tạo thành một đường gần như nằm ngang. Tình trạng này xuất hiện hoặc là khi không có sự kiện kinh tế chính trị đặc biệt nào diễn ra và các thành phần tham gia thị trường không có cơ sở để đưa ra các quyết định giao dịch hoặc trong các dịp nghỉ lễ khi khối lượng giao dịch sụt giảm đáng kể. Nhìn chung, tình trạng này hiếm khi xuất hiện và nếu xem xét trong một khoảng thời gian dài thì hầu như không bao giờ xảy ra.

  • Có xu hướng rõ ràng và ổn định
Giá cả thay đổi theo một chiều hướng nhất định mà không có điều chỉnh đáng kể nào theo hướng ngược lại. Đặc điểm của thị trường kiểu này là, khối lượng giao dịch sẽ ở mức thấp nếu như có sự thống nhất trong quan điểm về xu hướng của thị trường. Đây chính là các giai đoạn B và E trong hình dưới.

  • Có xu hướng rõ ràng nhưng không ổn định
Giá cả thay đổi theo một chiều hướng nhất định với nhiều lần điều chỉnh đáng kể nào theo hướng ngược lại. Diễn biến thị trường từ giai đoạn A đến giai đoạn E trong hình dưới đây được coi là một xu hướng đi lên mặc dù nó rất thiếu ổn định. Các giai đoạn C và D cũng có tính chất tương tự.

Tại bất cứ thời điểm nào, giá cả cũng đều được xác định bởi cung và cầu trên thị trường. Nhưng nhìn chung, đây chỉ là cách tiếp cận đã được đơn giản hóa tối đa. Bạn cần phân tích chỉ số cung/cầu cũng như vai trò của mỗi thành phần tham gia thị trường trong việc xác định giá cả nhằm hiểu rõ ràng và đầy đủ hơn về các yếu tố tác động đến thị trường

Потенциальные продавцы – Người bán tiềm năng

Имеющие короткую позицию – Những người đã bán ra (Short-sellers)

Цена ASK – Giá mua

Цена BID – Giá bán

Имеющие длинную позицию – những người đã mua vào (long position traders)

Потенциальные покупатели – Người mua tiềm năng

Về lý thuyết, bất cứ thành phần nào tham gia vào thị trường, một khi đã mở một trạng thái giao dịch thì đều trở thành người quan sát thụ động đối với thị trường bởi khi đó, họ không còn khả năng tác động tới các diễn biến của thị trường mà họ chỉ có thể làm một điều duy nhất là đóng trạng thái của mình lại. Không ai biết chắc mức giá thỏa đáng của một đồng tiền tại một thời điểm nhất định là bao nhiêu, nhưng có một điều chắc chắn đúng là nếu lượng người mua nhiều hơn người bán thì giá cả sẽ đi lên. Mặt khác, nếu giá cả bắt đầu tăng lên hoặc giảm xuống, những người đang ở vị thế bất lợi sẽ tìm cách loại bỏ những trạng thái giao dịch thua lỗ của mình (điều này lý giải vì sao một số nhà kinh doanh lại bán ra trong khi đáng ra nên mua vào). Đến một thời điểm nào đó, áp lực mua vào và bán ra sẽ cân bằng. Số lượng người mua giảm vì những ai muốn mua thì đã mua vào. Nhưng số lượng người bán thì lại tăng lên – đây là những người đã thực hiện lệnh mua, giờ đây quyết định chốt lời và những người đang đợi giá cả chạm mức nhất định nào đó. Giá cả ngừng tăng, dao động quanh mức nào đó rồi sau đó bắt đầu đi xuống, thường là với tốc độ nhanh không kém gì lúc tăng lên vì trước những dấu hiệu đi xuống đầu tiên của thị trường, những nhà kinh doanh theo chiều hướng ngược lại sẽ nhanh chóng đóng trạng thái của mình để chốt lời. Như chúng ta thấy, tâm lý thị trường quyết định tất cả.

2014-07-03_12-05-38.png

2014-07-03_14-25-58.png

2014-07-03_14-25-31.png


Giá cả tại một thời điểm nào đó là sự phản ánh của tất cả các thông tin liên quan mà tất cả mọi người có được vào thời điểm đó. Do mỗi người lại có những đánh giá khác nhau về tác động của thông tin, thị trường hiếm khi ở trạng thái hoàn toàn ổn định. Ngoài những yếu tố mang tính đầu cơ, tỷ giá tiền tệ còn bị tác động bởi nhu cầu thanh toán cho các hoạt động kinh doanh trong thế giới thực cũng như chính sách quản trị rủi ro của các định chế lớn.

Tuy nhiên, tin tức mới là yếu tố chính gây ra những biến động lên xuống nhanh chóng của giá cả, đôi khi với mức cách biệt rất lớn giữa hai lần yết giá liên tiếp. Vậy lý do dẫn đến cách biệt lớn về giá cả là gì? Hầu như mỗi lần tình trạng này xuất hiện, nguyên do của nó đều là những biến đổi của các chỉ số kinh tế hoặc các sự kiện chính trị có ảnh hưởng lớn tới thị trường. Thông tin mới bao giờ cũng làm thay đổi kỳ vọng của những người tham gia vào thị trường cũng như tỷ lệ cung/cầu, những yếu tố trực tiếp tác động lên giá cả. Tác động của những thông tin này còn được phóng đại lên khi nó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, xuất hiện trong các báo cáo phân tích và tư vấn của các chuyên gia. Người ta bỗng thấy ai ai cũng nói về nó, điều sẽ cho thấy tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của nó trong dài hạn. Giá cả bắt đầu tăng ổn định khi ngày càng có nhiều người bị tác động bởi thông tin đó. Và họ phản ứng bằng cách tác động tới thị trường thông qua các hoạt động giao dịch của mình. Đó là lý do tại sao George Soros từng nói trong các cuốn sách của mình rằng việc nắm bắt được quan điểm đang chi phối thị trường còn quan trọng hơn là những thay đổi trong thực tế.

Những người tham gia thị trường được chia làm ba nhóm chính: người bán, người mua và người chưa quyết định sẽ bán hay mua. Người mua cố gắng mua vào với giá thấp nhất có thể; người bán cố bán ra với giá cao nhất có thể. Tuy nhiên, cả hai nhóm này sẽ sẵn lòng nhượng bộ cho nhau để giao dịch có thể diễn ra. Những người chưa quyết định thì quan sát thị trường với hy vọng hiểu được chiều hướng của giá cả và cố gắng gia nhập thị trường sao cho có lợi cho mình nhất. Chính sự thay đổi trong quan điểm của những người này lại thường là yếu tố quyết định chiều hướng giá cả.

Trong thực tế, việc nắm bắt xu hướng giao dịch của nhóm người chưa quyết định mua hay bán là chưa đủ. Vào bất cứ ngày giao dịch nào các nhà kinh doanh cũng đã có sẵn các trạng thái giao dịch, trạng thái đã mua (long position) trong trường hợp họ đã mua một loại tiền tệ nào đó hoặc trạng thái đã bán (short postion) trong trường hợp họ đã bán một loại tiền tệ nào đó. Xét trên phạm vi rộng, xu hướng giá cả còn được xác định bởi cả những nhà giao dịch này bởi họ sẽ phải quyết định thời điểm đóng trạng thái giao dịch của mình với kết quả có lãi hoặc thua lỗ. Những quyết định như vậy thường được đưa ra khi một cặp tiền tệ đạt tới các mức giá hỗ trợ hoặc kháng cự.
 
Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa những người thất nghiệp và những người đang có việc làm trong phạm vi một quốc gia. Bạn có thể theo dõi tỷ lệ này bằng cách sử dụng hai chỉ số việc làm chính:

  • Đề nghị trợ cấp Thất nghiệp Lần đầu (Initial Jobless Claims);
  • Bảng lương Phi nông nghiệp(Nonfarm Payrolls – NFP).
Số lượng đơn Đề nghị trợ cấp Thất nghiệp Lần đầucho thấy có bao nhiêu người đang trong quá trình tìm kiếm việc làm đã đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp trong một khoảng thời gian xác định. Bộ Lao động Mỹ là cơ quan chịu trách nhiệm công bố số liệu này vào thứ Năm hàng tuần

Số lượng đơn Đề nghị trợ cấp Thất nghiệp Lần đầu ↓ = ↑Tỷ giá hối đoái





Chỉ số này chỉ tác động rất ít lên tỷ giá hối đoái bởi hai lý do. Một là nó được công bố hàng tuần, mà diễn biến của nó trong khoảng thời gian ngắn như vậy thì thường không nhiều khó gây được sự chú ý. Hai là bản thân số lượng đơn đề nghị này cũng không quan trọng bằng số việc làm mới được tạo ra. Sự gia tăng của số lượng người nhập cư và quá trình tự động hóa mạnh mẽ đều làm giảm nhu cầu về nhân công (nhưng làm tăng năng suất lao động) và tác động rất mạnh tới chỉ số thất nghiệp.

Bảng lương Phi nông nghiệp NFP là một trong những chỉ số kinh tế quan trọng nhất của Mỹ. Nó được công bố mỗi tháng một lần. Nó phản ánh rất rõ nét thị trường lao động Mỹ và được các nhà kinh doanh cũng như các nhà phân tích theo dõi sát sao. Số lượng việc làm mới tăng cao là dấu hiệu cho thấy kinh tế đang tăng trưởng bởi nó chứng tỏ các công ty đang thuê thêm người để đáp ứng nhu cầu của mình về lao động để hoàn thành cácđơn đặt hàng của khách hàng. Cùng với NFP, hai chỉ số quan trọng khác cũng được công bố đó là:

  • Mức tiền công Trung bình Giờ(Average Hourly Earnings) là giá trị tuyệt đối trung bình của mức tiền công theo giờ và phần trăm tăng lên của nó trong một khoảng thời gian nhất định
  • Số giờ làm việc Trung bình tuần (Average Workweek).
Dữ liệu về cả ba chỉ số trên đều được công bố hàng tháng vào ngày thứ Sáu đầu tiên. Bộ Lao động Mỹ là cơ quan chịu trách nhiệm về các chỉ số này (http://stats.bls.gov). Thực tế đã cho thấy, tỷ giá hối đoái có thể thay đổi tới 125 điểm phần trăm chỉ vài giờ sau khi NFP được công bố. Điều này khiến cho báo cáo NFP trở thành một trong những chỉ số có tác động lớn nhất tới thị trường.

Bảng lương Phi nông nghiệp ↑ = ↑ Tỷ giá hối đoái

Tỷ lệ thất nghiệp ↓ = ↑ Tỷ giá hối đoái

Việc phân tích báo cáo NFP cho thấy những thay đổi quan trọng nhất đang diễn ra tại khu vực nào của nền kinh tế. Gần đây, chúng ta thấy những thay đổi mạnh mẽ diễn ra trong cấu trúc của thị trường lao động tại các nền kinh tế phát triển. Chỉ trong vòng vài thập kỷ, vai trò của nông nghiệp ngày càng giảm sút, nhường bước cho sự lên ngôi của thương mại và dịch vụ. Tiền công trung bình của một lao động có kỹ năng trong ngành tài chính và sản xuất cao hơn của một lao động làm việc trong ngành nông nghiệp và dịch vụ. Kết quả là, số lượng việc làm mới được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất, tài chính và xây dựng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế hơn là số việc làm mới trong các ngành nghề khác. Do vậy, những thay đổi trong báo cáo NFP chắc chắn sẽ tác động tới ứng xử của các thành phần tham gia vào thị trường Ngoại hối.
 
:3 để làm gì đây thớt
 

Announcements

Today's birthdays

Forum statistics

Threads
421,915
Messages
7,117,229
Members
174,091
Latest member
Usdzvc

Most viewed of week

Most discussed of week

Most viewed of week

Most discussed of week

Back
Top Bottom